Trường An Loạn

Chương 4

/8


Tôi và Hỷ Lạc đeo Linh xuống núi, thực ra tôi đợi ngày này từ lâu lắm rồi, có thể nói là mười năm, bởi tôi chẳng bao giờ muốn bị nhốt vào một chỗ rất nhỏ để rồi làm những việc rất lớn, như vậy thà ở một chỗ rất lớn rồi làm những việc rất nhỏ còn hơn. Cách suy nghĩ cũng có thể tự do thay đổi, nó sẽ lớn ở những chỗ lớn, và nhỏ ở những chỗ nhỏ. Song ngày này đến có vẻ đường đột, và có vẻ như khi những người hoặc những sự việc ta mong đợi quá lâu cuối cùng cũng xuất hiện, thì ta lại tỏ ra bình tĩnh và suy ngẫm về nguyên do khiến ta bình tĩnh đến vậy. Nguyên do chính là việc nếu lựa chọn cái mới thì sẽ phải mất đi cái cũ, trong khi cái cũ dường như vẫn còn rất tốt.

Tuy sự việc không đến nỗi to tát như những gì tôi ngẫm nghĩ suốt bao năm qua, mọi thứ cứ như thể đang chạy tị nạn, song trong lúc chạy tị nạn lắm khi lại có những thu hoạch bất ngờ, điều tôi muốn nói chính là Hỷ Lạc, cô gái xinh xắn đáng yêu đứng bên tôi, đang đeo thanh kiếm Linh trông rất mất cân đối so với người cô nàng.

Tại sao trong tất cả mọi việc, phụ nữ trông đều xinh đẹp đáng yêu. Tôi nghĩ chắc là “yêu nhau yêu cả đường đi” nên vậy, lý do này rất hay, nhưng tôi thực sự không phán đoán được, nói ra hẳn rất ngượng ngùng, bởi tôi cũng chưa so sánh bao giờ, có khi đây là cô nàng đầu tiên tôi ngắm nghía kỹ lưỡng.

Có rất nhiều chuyện xảy ra trong bao năm chúng tôi ở bên nhau, cần phải từ từ hồi tưởng lại, nhìn chung đều rất khó khăn, đầu tiên là việc sống chung với một cô nương bao lâu như thế, trong khi cô nàng lại có khuôn mặt cân đối ưa nhìn, muốn không thích cũng khó, ngoài ra việc khó khăn hơn là ở phía Hỷ Lạc, thật sự chẳng dễ gì khi xung quanh đến hơn một nghìn anh đàn ông mà lại không hề có mối quan hệ mờ ám nói với họ, và càng quý hóa hơn nữa khi cô nàng không hề nảy sinh thứ tình cảm phức tạp đủ khiến câu chuyện này trở nên rối rắm với sư huynh Thích Không của tôi, một người cũng không kém phần xuất chúng.

Tôi biết làm sao được, tôi nghĩ, những điều người khác làm và những điều tôi cảm nhận chính là những gì người ta nghĩ trong lòng.

Chúng tôi men theo đường xuống núi, dưới núi có một dịch trạm, rất nhiều thớt ngựa nghỉ chân ở đó. Cũng may trước khi được cứu vào chùa Hỷ Lạc đã có kinh nghiệm xã hội phong phú hơn tôi, nên tôi mới khỏi nghĩ rằng lũ ngựa này có thể dắt đi miễn phí. Hỷ Lạc nói, trong dịch trạm có cho thuê ngựa. Mà chúng tôi đang rất cần một thớt ngựa.

Tôi nói: Huynh cũng nghĩ vậy, nhưng chúng ta làm gì còn đồng bạc nào.

Hỷ Lạc nói: Vậy phải làm sao nhỉ, trên người muội cũng chẳng có thứ gì đáng tiền cả.

Tôi nói: Xem ra thứ đáng tiền nhất chính là thanh kiếm này rồi.

Hỷ Lạc đáp: Muội thì nghĩ có thể đem thanh kiếm này đi cầm đồ.

Còn tôi nghĩ chắc mọi người đều nghèo cả, vừa nghèo lại vừa muốn cưỡi ngựa, bởi bên cạnh dịch trạm có một cửa hiệu cầm đồ.

Tôi và Hỷ Lạc dắt tay nhau bước vào hiệu cầm đồ, đặt thanh kiếm lên mặt bàn. Chủ hiệu hỏi chúng tôi: Hai vị là người ở đâu vậy?

Tôi đáp: Tôi là người của Thiếu Lâm, thanh kiếm này chính là thanh kiếm Linh nổi tiếng, ông xem nó đáng giá bao nhiêu?

Chủ hiệu đánh mắt nhìn tôi, lại do xét Hỷ Lạc, rồi cười ngặt nghẽo nói: Linh thì đúng là ở Thiếu Lâm, nhưng… ha ha ha ha. Thiếu Lâm giờ cũng thoáng thật, thầy tu được phép mang theo đàn bà con gái sao?

Tôi nói: Sao cái cục cứt, chúng tôi quen nhau từ nhỏ.

Chủ hiệu lại cười ngặt nghẽo, nói: Chắc dấm từ tấm bé cũng nên, ha ha ha ha, thôi được rồi, tôi không đùa hai vị nữa, để tôi coi thanh kiếm này xem sao.

Lão chủ hiệu cầm kiếm lên quan sát, ngắm bao kiếm một hồi, đang định rút kiếm thì tôi nói: Cẩn thận kiếm khí đấy!

Chủ hiệu đúng là người thẳng tính, giàu cảm xúc và rất hào sảng, lần này lão ta cười ha hả hết đúng một tuần hương, đoạn nói: Bao kiếm này làm cũng khá được, đủ cho hai ngươi được cái giá phải chăng, có điều ranh con các ngươi chớ có khoác lác, bằng không ta đã định giá xong rồi.

Nói đoạn liền rút Linh ra. Nào là kiếm khí yêu phong, tất tật chẳng thấy thứ gì xuất hiện, bình thường chắc đã toi rồi. Chủ hiệu nói: Kiếm xịn! Hàng nhái cũng xịn! Chẳng qua là thiếu chút gì đó, không thì đã là hàng thật rồi.

Tôi nghĩ bụng, có mà chính lão thiếu chút gì đó thì có.

Chủ hiệu nói: Ta trả cho hai ngươi mười lạng bạc, lãi suất mười phần trăm, nội trong một tháng mà không đến lấy, ta sẽ tự xử lý.

Hỷ Lạc nói: Mười lạng? Quá ít! Hồi nhà chúng tôi còn khá giả, phải chi hơn trăm lạng mới đúc được thanh kiếm này đấy!

Chủ hiệu nói: Ồ, không phải hai vị nhặt được à, thế thì năm mươi lạng vậy nhé?

Hỷ Lạc nói: Tám mươi lạng.

Chủ hiệu nói: Xong luôn.

Hỷ Lạc nói: Một trăm lạng.

Chủ hiệu nói: Thế thì không được, cứ trả tiếp nữa thì vô cùng lắm, thanh kiếm này rất được, trông cũng thật, có điều giá mà tăng lên nữa, thì tôi lên hẳn Thiếu Lâm tự mua hàng thật cho xong.

Tôi nói: Hả, cái này mà cũng mua được à?

Chủ hiệu nói: Cái này công tử không phải bận tâm, thôi tôi trả công tử tám mươi lạng. Nào! Thứ này thuộc hàng quý giá, tôi sẽ gọi thợ vẽ đến vẽ chân dung hai vị, kẻo lúc đến lấy lại nhầm người, hai vị nhớ nhé, mã số của thanh kiếm này là: Hàng quý 00121, mật mã là ngày giờ hôm nay, nhà tôi là cửa hiệu cầm đồ đệ nhất thiên hạ, muốn sửa mật mã, hai vị cứ đến các chi nhánh ở Trung nguyên là được.

Nói đoạn, thợ vẽ cũng tới nơi, tôi và Hỷ Lạc ngồi lại ngay ngắn, thợ vẽ nói, vẽ một người hay vẽ cả hai ạ?

Tôi trả lời: Vẽ cả hai đi!

Chủ hiệu nói: Nếu vẽ cả hai thì chỉ khi nào cả hai vị cùng đến mới lấy được đồ, rắc rối lắm. Bận trước có cả một lớp học tư thục đến cầm một món đồ, họa sẽ vẽ cả lớp phải mất ba ngày mới vẽ xong, rốt cuộc lớp ấy bây giờ có hai học sinh tử nạn, đồ của họ thì vĩnh viễn không thể lấy ra.

Hỷ Lạc nói: Vậy vẫn cứ vẽ cả hai đi, một trong hai chúng tôi chết thì cũng chẳng cần món đồ này làm gì.

Tôi nói: Vậy thì vẽ cả hai luôn, anh nghe rõ chưa, vẽ đẹp một chút nhé!

Thợ vẽ nói: Vâng. Hai vị ngồi sát lại một chút, giấy to chừng này thôi, cách xa nhau quá sợ vẽ không đủ.

Tôi hỏi: Thế lần trước anh vẽ cái lớp kia thế nào?

Chủ hiệu nói: Xin công tử quay lại nhìn phía sau, hình vẽ trên tường kia chính là họ đấy.

Tôi và Hỷ Lạc quay lưng nhìn lại phía sau, tôi nói: Phải vẽ những ba ngày?

Hỷ Lạc nói: Sao xấu thế nhỉ?

Chủ hiệu nói: Thì tại tay thợ vẽ bận ấy kém quá, thế nên, nó vừa vẽ xong bức này, ra khỏi cửa là bị đạp chết ngay.

Tôi nói: Vậy lần này vẽ chúng tôi đèm đẹp nhé, tôi và cô nương đây chưa từng đi vẽ chân dung lần nào đâu, vẽ xấu tôi cũng sẽ đập chết anh đấy.

Thợ vẽ nói: Yên tâm, bảo đảm công tử sẽ hài lòng. Tôi thì thế này, vẽ tùy tiện không lấy tiền, vẽ giống lấy nửa lạng, vẽ đẹp lấy một lạng.

Chẳng đợi tôi kịp phát ngôn, Hỷ Lạc đã nói: Này, tôi trả anh hai lạng bạc, anh biết phải vẽ chúng tôi thế nào chưa?

Anh thợ vẽ mở cờ trong bụng, vội nói: Chắc chắn rồi, xin hai vị ngồi yên ạ!

Tôi và Hỷ Lạc ngồi sát bên nhau, giữ yên vẻ mặt tươi cười quãng bốn giờ, song trong khoảng thời gian đó, thợ vẽ dường như chẳng hề ngẩng mặt lên quan sát chúng tôi. Sắc trời tối sẩm, bức tranh cũng được hoàn thành.

Tôi và Hỷ Lạc đón bức tranh, hớn hở tỏ vẻ hài lòng, tôi nói với lão chủ hiệu: Ông cất giữ bức tranh cẩn thận cho tôi nhé, đến khi quay lại chuộc đồ, tôi sẽ lấy bức họa mang về luôn.

Chủ hiệu nói: Nhất định rồi. Song hai vị quý nhân còn phải điểm chỉ lên bức vẽ nữa mới được.

Hỷ Lạc hỏi: Tại sao? Ngộ nhỡ ông viết thêm khế ước bán mình lên trên thì chúng tôi phải làm thế nào?

Chủ hiệu cười nói: Cô nương đa nghi quá, tôi nào dám, sau này tôi làm sao mà tiếp tục làm nghề này được chứ?

Tôi hỏi: Vậy điểm chỉ để làm gì? Ông không biết dấu vân tay đại diện cho thân chủ hay sai?

Chủ hiệu nói: Dạ vâng, tôi chỉ e là không có vân tay, khi hai vị đến chuộc đồ, nhỡ mà tôi không có ở cửa hàng, chỉ dựa vào hai vị tiên trong bức tranh này thôi thì người hiệu tôi sẽ chẳng thể hoàn lại đồ cho hai vị được.

Tôi và Hỷ Lạc cầm tiền tới dịch trạm, hỏi người quản trạm: ngựa cho thuê ở đâu, người quản trạm dân chúng tôi lại một phía, ở đó có cả thảy hai thớt ngựa. Hỷ Lạc nói: Sao ít vậy?

Quản trạm nói: Khách quan đến muộn quá, chỉ còn hai thớt ngựa này thôi, song chúng không phải bị khách chọn rồi để thừa lại đâu, cũng là ngựa tốt cả đấy.

Tôi nói: Không phải loại bị để thừa lại thì là loại gì?

Quản trạm nói: Thì do vừa khéo người ta không chọn chúng. Khách quan xem, con đen bên trái kìa, thân hình vâm chắc, đuôi bồng chân khỏe, mã lực lại lớn, ăn rõ ít mà chạy rõ nhiều, tốc độ cực nhanh, đúng là bậc hào kiệt trong loài ngựa vậy!

Hỷ Lạc hỏi: Vậy sao không có ai thuê?

Quản trạm nói: Con này mỗi tội không nghe lời, cứ chạy linh tinh.

Hỷ Lạc nói: Vậy sao được, quả thật là không được, thôi thì thuê con lừa cạnh ông vậy!

Quản trạm nói: Khách quan, đây cũng là ngựa đấy ạ, cô chớ có nom con ngựa này nhỏ, tuy thân hình nó gầy còm, đuôi thưa chân mảnh khảnh, mã lực yếu, ăn rõ nhiều chạy rõ ít, tốc độ lại chậm, song trông lại nhỏ nhắn xinh xắn, cũng tiện dắt theo, hai vị cưỡi con này là hợp nhất đấy, hai vị buông thõng chân xuống, con ngựa này bị che đi ngay, trông như chẳng cưỡi con vật gì cả, nhìn từ xa, lại cứ ngỡ hai vị như đang bay trên không ấy chứ.

Hỷ Lạc ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: Vậy cũng không tồi, haizz, ta lấy con nào đây?

Tôi nói: Huynh thấy lấy cái con chạy linh tinh hơn, rèn là được mà.

Hỷ Lạc nói: Không rèn được đâu, rèn được thì đã có người thuê lâu rồi. Ta cưỡi con ngựa nhỏ kia đi!

Tôi nói: Ngựa nhỏ cũng được, có điều chẳng may mà có bọn xấu đuổi theo, con ngựa ấy lại chạy chậm thì phải làm thế nào?

Hỷ Lạc nói: Thôi được rồi, dùng tạm đi, cũng còn hơn là chạy thẳng tới chỗ kẻ xấu mà.

Tôi nói: Chuyện vặt vãnh thế này huynh nghe theo muội, sau này huynh quyết định đại sự là được.

Tôi và Hỷ Lạc dắt ngựa ra, quyết định đặt cho con ngựa còm này một cái tên, Hỷ Lạc muốn gọi nó là Lép, tôi thì thấy cái tên này giống tên con cá lép, nên nói: không được.

Hỷ Lạc nói: Muội thấy con ngựa này quá lép ấy, chân thì ngắn cũn, gọi nó là Lép quá hợp rồi. Vả lại huynh bảo rằng những việc vặt vãnh thì do muội quyết định cả còn gì.

Tôi nói: Nhưng đặt tên là việc hệ trọng.

Hỷ Lạc nói: Mặc kệ đấy, dù sao sau này muội cũng có quyền quyết định hai việc, một là những việc vặt vãnh, hai là việc phán quyết xem việc nào là việc vặt vãnh và việc nào là việc hệ trọng.

Tôi và Hỷ Lạc bước ra khỏi dịch trạm, đứng ở trên cao nhìn quanh bốn phía. Chính đỉnh núi này là nơi chúng tôi chung sống bên nhau suốt mười năm nay, cũng bởi nơi đây có ngôi chùa lớn nhất, chúng sinh khắp nơi đến thắp hương khấn khứa nhiều nhất, cho nên dưới chân núi dần dần hình thành nên một thị trấn rất nhỏ, gồm một dịch trạm, một tửu lầu, một cửa hiệu cầm đồ, một cửa hàng rèn sắt, ba nhà trọ và một hàng tạp hóa. Con phố nhỏ có hai đường cắt nhau hình chữ Thập, phía trước thông thẳng đến thành Trường An, phía sau là Thiếu Lâm, bên trái là con đường tơ lụa, còn bên phải hướng ra biển. Giữa trung tâm con phố có một đôi câu đối, song đối không hề chỉnh, vế trên là: Chớ có. Vế dưới là: Quay đầu. Bức hoành phi ở giữa vẫn lại là bốn chứ viết ngay ngắn: CHỚ CÓ QUAY ĐẦU.

Những thứ trông có vẻ thâm thúy này thực ra phải xem xét nó xuất hiện ở đâu, ở nơi đầy ắp Thiền cơ, chói chang Phật pháp này thì nó chính là chân lý. Hễ là những thứ có thể suy nghĩ kỹ càng thì tốt nhất đừng suy nghĩ làm gì, bởi quả thực tôi cũng chẳng hiểu gì cả, điều này cũng có nghĩa là, với một số việc đừng nên đặt câu hỏi nên quay đầu là bờ hay không nên quay đầu lại.

Một cơn gió cát chẳng biết tự nơi nao ập đến đã tràn ngập con phố nhỏ này, đây là thánh địa được dựng lên giữa chốn đồng hoang, nhất là dưới ánh chiều tàn, rất đông những người nhạt nhòa nhân ảnh bắt đầu dập đầu hành lễ ở chỗ CHỚ QUAY ĐẦU LẠI, song tất cả mọi thứ dường như đều có thể bị cuốn phăng đi bởi một trận bão cát.

Bên ngoài dường như cũng rất yên bình, song mọi người đều biết rằng từ sau cuộc tỉ thí lần trước, mối quan hệ trong giang hồ đã trở nên tế nhị, triều đình cũng có những phản ứng tế nhị. Một số nơi đã rộ lên những tiếng chém giết, duyên do có thể chỉ là vì yên ổn quá lâu.

Dưới ánh hoàng hôn thê thiết, cô gái bên cạnh tôi tên là Hỷ Lạc, kể ra cũng còn đỡ, cái chính là con ngựa lại tên Lép, thật sự chẳng đem lại cho người ta chút không khí hào hiệp nào.

Song bất kể thế nào, cuối cùng, tôi và Hỷ Lạc vẫn phải rời bỏ nơi này, chỉ có điều chẳng ai biết phải đi đâu, và cũng chẳng có ai nói là phải làm gì. Tôi hỏi Hỷ Lạc, chúng ta đi đâu đây? Tôi nghĩ bụng, chắc Hỷ Lạc cũng chẳng biết gì hơn tôi đâu.

Hỷ Lạc nói: Chúng ta có thể đi Trường An, nơi đó rộng lớn, có thể mua ít quần áo.

Tôi cố gắng nhớ lại xem trước lúc ra đi sư phụ và phương trượng có việc gì dặn dò tôi không, nhưng họ chỉ nói: Con đi đi!

Trước mắt cũng đành đi Trường An, Trường An, cái tên nghe rất hay, là kinh đô, mọi thứ ở đó đều thật tuyệt, ngoại trừ việc Trường An chưa bao giờ “trường an” cả. Thẳng phía Tây đi tới Trường An, xa mấy trăm dặm, cưỡi lừa phải lắc lư mất hai ngày, vậy có nghĩa là cưỡi Lép thì phải mất ba ngày.

Lép thật là một con ngựa hiểu ý chủ, ta vẫn nói tâm tính tương thông chẳng qua cũng đến vậy thôi, chủ mệt nó cũng mệt, chủ ngủ nó cũng ngủ, tôi và Hỷ Lạc định đánh một giấc trên lưng nó, nhưng khi tỉnh dậy đã thấy nó ngủ ngon hơn ai hết. Hỷ Lạc kẹp hai chân lại, con Lép sực tỉnh, nó hí vang một tiếng rồi chậm rãi tiến về phía trước.

Hỷ Lạc hỏi tôi: Con ngựa này sao lại có thể ngủ đứng được nhỉ?

Tôi đáp: Nó khôn, nếu nó nằm xuống ngủ thì huynh và muội đều té ngã cả rồi còn gì?

Hỷ Lạc nói: Đúng là con ngựa tốt.

Tôi nói: Chuyến đi Trường An này không những lành ít dữ nhiều, lại còn hết sức vô nghĩa nữa.

Hỷ Lạc hỏi: Sao huynh lại biết là vô nghĩa?

Tôi trả lời: Bởi quả thật không biết mình đi làm cái gì.

Hỷ Lạc nói: Muội thấy cũng được đấy chứ. Chưa biết là việc gì thì làm sao biết được nó vô nghĩa.

Tôi nói: Thật là khó hiểu.

Hỷ Lạc hỏi: Vậy sao huynh lại nói là lành ít dữ nhiều?

Tôi trả lời: Huynh chẳng biết. Chỉ biết là mỗi khi sư phụ hoặc sư huynh đi giải quyết sự vụ gì đều nói rằng: chuyến này e là lành ít dữ nhiều. Chẳng hiểu sao lại vậy.

Hỷ Lạc nói: Chắc là nói vậy, để chẳng may ta đi có lỡ thiệt mạng, mọi người sẽ không cảm thấy bất ngờ, còn nhỡ mà không chết, thì cứ như bản thân rất lợi hại vậy.

Tôi nói: Hỷ Lạc, muội thông minh thật đấy!

Hỷ Lạc nói: Huynh cũng thông minh mà, với lại huynh nhìn mọi thứ đều cụ thể, tường tận, muội thật hâm mộ huynh đó.

Tôi nói: Có gì đâu, chẳng qua là quan sát tỉ mỉ thôi.

Hỷ Lạc nói: Có điều, hình như… chẳng lẽ huynh không phát hiện thấy chúng ta đứng yên một chỗ suốt từ nãy tới giờ sao?

Tôi cúi đầu nhìn, con Lép lại ngủ rồi.

Tôi hỏi Hỷ Lạc: Nó ngủ từ lúc nào thế nhỉ?

Hỷ Lạc đáp: Muội nghi ngờ là nó ngủ từ cái lúc muội nói câu “Đúng là con ngựa tốt” ấy.

Tôi nói: Lúc nào mới tới Trường An được đây?

Hỷ Lạc đáp: Cứ đánh thức nó dậy rồi hẵng nói. Nói đoạn lại ghì hai chân lại, con Lép lại hí lên một tiếng, song đứng yên không mảy may động đậy. Hỷ Lạc nói: Thôi toi rồi, con ngựa này không thể tỉnh dậy ngay được đâu, Nói xong liền xuống ngựa, giật giật cái đuôi, song con ngựa vẫn đứng yên, không mảy may nhúc nhích.

Tôi nói: Không được đâu, đừng để con ngựa này trở thành gánh nặng của ta trên đường. Muội đạp cho nó hai đạp!

Hỷ Lạc nói: Việc nhỏ nhặt này huynh ra tay là được!

Thế rồi tôi xuống ngựa, đạp mạnh nó một cái. Con Lép lại hí vang một tiếng song không có phản ứng gì thêm. Tôi và Hỷ Lạc nhìn nhau không nói được lời nào. Tôi nói: Chẳng lẽ phải khoét mắt nó ra mới đánh thức được nó chắc? Vậy hay là khoét thêm mấy thứ ra nướng ăn nhỉ?

Hỷ Lạc nói: Huynh chẳng có tý tình cảm nào với con Lép cả, thôi dù sao hôm nay cũng mệt rồi, chi bằng ta dừng lại đây nghỉ ngơi một lúc, đợi trời sáng rồi tính tiếp.

Tôi còn nhớ hồi bé có một lần như thế này, tất cả huynh đệ do phải xử lý một vài việc đã lén chạy ra ngoài ngủ một đêm. Lúc đó có cả sư huynh tôi, mà tôi bất chợt nghĩ, không biết sư huynh tôi giờ đang làm gì. Chúng tôi từ bé tới lớn chưa từng rời nhau nửa bước, chuyện gì cũng nói, và đương nhiên cũng chẳng có chuyện gì để nói, trừ phi trong chùa xảy ra việc gì mới mẻ. Tính sư huynh tôi cũng giống tôi, đều thuộc dạng khó có thể tưởng tượng nổi, vì thời gian bên nhau quá mức lâu, thành thử lần này không được bầu bạn sớm chiều nữa lại cảm thấy hết sức nhẹ nhõm. Có thể tôi luôn muốn làm một số việc sư huynh không biết, trong khi những việc trước kia chúng tôi đều biết quá rõ.

Còn hôm nay chỉ là tôi với Hỷ Lạc, chúng tôi tìm đến dưới gốc cây gần đó, con Lép vẫn đứng ngủ cách đó chừng mười mét. Ban đêm, không khí rất dễ chịu, có thể trông rõ các vì sao, tôi nói: Không ngờ lại ra khỏi chùa nhỉ.

Hỷ Lạc nói: Muội lại chẳng thấy có thay đổi gì lớn cả, như nhau thôi.

Nói được hai câu, chúng tôi đều díp cả mí mắt. Không biết tựa vào nhau ngủ được bao lâu, tôi đột nhiên cảm giác có thứ gì đó ở gần mình, lập tức bừng tỉnh, đứng phắt dậy quát: Ai đấy?

Hỷ Lạc cũng bị tôi làm cho giật mình, vội ôm lấy chân tôi.

Trước mắt tôi chềnh ềnh một cái mặt ngựa.

Tôi và Hỷ Lạc thở phào một hơi, Hỷ Lạc xoa mình con Lép nói: Muội nghĩ, làm gì có chuyện chúng ta bị truy sát gắt gao thế.

Tôi nói: Giật cả mình. Nghỉ tiếp một lát đi. Còn bao lâu nữa trời sáng nhỉ?

Hỷ Lạc đáp: Ít nhất cũng phải mấy tiếng nữa, đêm dài thật.

Tôi nói: Dài là vì có chút bất ngờ. Không có chút bất ngờ thì việc gì cũng ngắn.

Tôi và Hỷ Lạc nhắm mắt lại. Ai dè con Lép đứng bên bắt đầu thở phì phì, tôi nói: Chết rồi, con ngựa này lấy lại sức rồi, nó bắt đầu hừng hực lại rồi. Muội xem xem, muội chọn phải con quái vật gì vậy.

Hỷ Lạc ngồi một bên dụi dụi vào tôi, mơ màng nói: Kệ nó, ngủ đi!

Tôi còn nhớ lúc bấy giờ nghe tiếng thở phì phò của con ngựa, tôi đã nghĩ đến rất nhiều việc, như sự bế tắc trong khi dự đoán những việc sắp xảy ra và nỗi sợ hãi do chính sự vô tri tuyệt đối này mang lại, tôi nhận thấy thật là vô nghĩa khi nghĩ quá nhiều, bởi tất cả mọi thứ đều bị cưỡng bức xảy ra và bị ép buộc chấp nhận.

Ngày hôm sau tỉnh giấc. Trời tờ mờ sáng, tôi đã ngửi thấy hương hoa thoảng đưa se sắt, không khí còn đẫm mùi sương. Lẽ nào đây chính là mùi hoa lộ thủy Hỷ Lạc đã kể từ ngày xửa ngày xưa? Phía đằng xa trông không được rõ, hình như có vài ngọn núi lè tè khuất trong sương sớm. Hỷ Lạc vẫn ngủ say, tôi sát lại ngắm nghía cô thật kỹ, quả là một khuôn mặt xinh đẹp. Hình như đẹp hơn khuôn mặt tôi thấy lúc ở chùa, sao vậy nhỉ, tôi nghĩ, chẳng lẽ vì đây là lần đầu tiên tôi thấy dung nhan của muội ấy trong khi ngủ? Và phải chẳng khi không nhìn tôi, muội ấy trông mới quyến rũ xiêu lòng nhất? Tôi ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng ngán ngẩm phát hiện ra rằng không phải vậy, chẳng qua vì hôm nay có vật để so sánh mà thôi, đó chính là cái mặt ngựa ngay bên cạnh chúng tôi.

Và điều ngán ngẩm hơn nữa là, con Lép ngờ đâu lại ngủ.

Tôi nghĩ, ba chúng tôi, hoặc nói, hai chúng tôi và một con ngựa, có lẽ nào vì giờ giấc ngủ hoàn toàn khác nhau nên vĩnh viễn không khi nào cả ba cùng tỉnh giấc, để rồi sau một tháng chúng tôi vẫn đứng nguyên ở một nơi?

Tôi nghĩ, Hỷ Lạc và tôi, dù là tôi dựa vào muội ấy hay muội ấy dựa vào tôi thì đều được cả. Nhưng hình như chúng tôi đều phải dựa vào con ngựa có giờ giấc nghỉ ngơi lạ lùng này.

Tôi lẳng lặng ngắm nhìn Hỷ Lạc, lúc này, con ngựa đã tỉnh, chạy sang một góc gặm cỏ, trong cơn mơ màng, tôi lại thiếp đi một lúc. Không biết ngủ được bao lâu, tôi bị Hỷ Lạc gọi dậy. Bấy giờ trời gần như đã sáng trắng. Tôi vừa dậy liền nói: Ngựa đâu?

Hỷ Lạc nói: Đang chạy một mình quanh cây đây này.

Tôi lập tức lấy lại tinh thần, nói: Mau nhân lúc cả ba cùng tỉnh, lên đường ngay. Bằng không tới Trường An sẽ trễ đấy.

Hỷ Lạc đáp: Ơ, nhưng chúng ta đến Trường An có việc gì đâu, sao lại sợ trễ nhỉ?

Tôi nói: Huynh không biết, huynh luôn cảm thấy phải mau chóng tới đó.

Lép chở chúng tôi, đủng đả đủng đỉnh lên đường.

Trưa. Chúng tôi tới trước một quán hàng, ở đó bán nước chè và lương khô. Chúng tôi cột ngựa, ngồi vào chỗ, gọi mấy bát nước và lương khô, tôi nói: Còn bao lâu nữa mới tới được Trường An nhỉ?

Hỷ Lạc đáp: Huynh hỏi chủ quán thử xem.

Tôi gọi chủ quán lại hỏi: Nhà mình đây cách chùa Thiếu Lâm bao xa ạ?

Chủ quán lập tức cổ vũ chúng tôi: Hai vị khách quan dọc đường mệt nhọc, nom là biết hai vị từ Trường An lại, không còn xa đâu, mười dặm nữa là tới thôi.

Tôi và Hỷ Lạc nghe xong, bất chợt cảm thấy mệt hơn.

Một lúc, chủ quán lại quay lại nói: Suốt từ Trường An tới đây sao không cho con ngựa con của hai vị ăn, nó đói lả ra rồi kìa.

Hỷ Lạc nói: Huynh đừng có trách muội, muội cũng nào có biết.

Tôi nói: Thôi được, dù sao cũng đã vậy rồi, xuất phát sớm một chút đi, ăn no chưa?

Hỷ Lạc gật đầu. Chúng tôi lại lên đường, chủ quán cứ gọi ầm lên ở phía sau: Nhầm đường rồi! Nhầm rồi! Thiếu Lâm ở đầu này cơ mà.

Tôi và Hỷ Lạc chỉ có thể giả vờ nghễnh ngãng, đi thẳng một mạch về phía trước.

Đường tới Trường An quả thật rất dài, tôi chỉ mong sao màn đêm mau xuống. Cái cảm giác nhất thiết phải đến một nơi nhưng lại chẳng biết vì sao phải là nơi đó chứ không phải là nơi khác, thật khó có thể hình dung bằng lời. Đôi tay của ai đó vì sao là đôi tay của người này mà không phải là đôi tay của người khác, tuy mang lại cảm giác giống nhau, nhưng lại không biết có giống nhau thật hay không, thực sự rất huyền hồ.

Tôi và Hỷ Lạc không cần phải tường thuật lại từ đầu bất cứ chuyện gì, dù trong đó có bao nhiêu việc, là việc gì đi nữa, kết cục cho tới ngày hôm nay cũng vẫn không thay đổi, trừ phi giang hồ thật sự giản đơn trong sạch, một trong hai chúng tôi sẽ chết bất thình lình. Kỳ thực tôi đã ngầm đặt ra kết cục này nhiều lần, bởi thời gian Hỷ Lạc ở trong Thiếu Lâm rất dài, tài nghệ bếp núc tuy ngày một tăng tiến, song thuật phòng thân thì chẳng khá gì hơn hồi muội ta tám tuổi, thế nên người chết trước chắc chắn là muội ấy, do vậy điều tôi cần phải nghĩ là giả như Hỷ Lạc chết thì sau đó tôi phải làm sao. Tôi nghĩ, tôi sẽ đào một cái hố chôn muội ấy, rồi quyết chí tự vẫn, cùng muội ấy về nơi chín suối, nhưng tôi lại có việc chưa hoàn thành, tỉ như, sư phụ hoặc phương trượng bị ai đó giết, tôi phải báo thù, mà kẻ sát nhân đó lại vừa khéo là kẻ giết Hỷ Lạc, thù xưa cộng với hận mới. Tôi sẽ nói trước mộ của Hỷ Lạc rằng, Hỷ Lạc, đợi huynh giết chết bọn chúng, huynh sẽ tự chôn mình. Sau đó, điều may mắn là, tôi đã giết hết bọn sát nhân một cách thuận lợi; còn điều bất hạnh là, tôi không thể tìm lại được nấm mồ trong đêm mưa đau đớn ấy, chẳng nhớ nổi rốt cuộc đã chôn Hỷ Lạc ở đâu.

Nghĩ đến đây, tôi không thể nào nghĩ thêm được nữa, bởi đó thực sự là một cuộc chia ly đằng đẵng, sẽ lắng sâu trong niềm đau xót, sẽ giống như ngọn cỏ, chẳng thể nào tự nhổ dậy được, còn lúc này đây, Hỷ Lạc trong cuộc sống hiện thực vẫn luôn tươi vui hoạt bát trước mặt tôi. Tôi say đắm nhìn Hỷ Lạc, nghĩ bụng, làm sao tôi có thể chôn một cô gái thế này ở một nơi mà ngay cả bản thân tôi cũng không thể tìm được nhỉ.

Hỷ Lạc và tôi năm mười bốn tuổi đã công khai dắt tay nhau đi trong chùa. Sư phụ rất chiều tôi, bảo rằng tôi chưa khôn lớn, còn chưa dậy thì, song các sư huynh đi tắm cùng thôi lại ngầm tố cáo, bảo rằng thực ra tôi đã dậy thì rồi. Việc này khiến sư phụ rất bực mình, bởi vì sư phụ nói vậy là mở lối thoát cho mọi người, vậy mà các vị sư huynh lại mê muội đến mức ấy, chẳng lẽ phải tụt quần ra kiểm tra tại chỗ? Thế thì còn ra thể thống gì. Thế rồi, sư phụ đánh cho họ một trận, bảo rằng, việc tắm gội là tắm gội, là gột rửa những tục khí trên thân thể do tiếp xúc với ngoại trần, các ngươi không suy ngẫm về ý nghĩa của việc tắm gội cho tốt, lại rắp tâm rình nhìn cậu bé của người ta, thật là bẩn thỉu. Cho dù cậu bé của tiểu đệ Thích Nhiên đã ấy, thì…, mà thế thì đã làm sao, không cho em nó nắm tay Hỷ Lạc, lại để cho các ngươi nắm chắc? Cái lũ dê này!

Như vậy, dưới sự che chở của sư phụ, những kẻ từ nhỏ đã không được cầm tay con gái đều trở thành lũ dê. Còn tôi thì vẫn có thể dắt tay Hỷ Lạc đi đi lại lại thoải mái. Các sư huynh không đoái hoài đến tôi cũng chẳng sao hết, có Hỷ Lạc là tôi có thể nói chuyện rồi.

Tôi hỏi Hỷ Lạc, muội có nhớ nhà không, Hỷ Lạc nói, thực ra muội ấy không có bố mẹ, từ nhỏ đã bị người ta dắt theo coi như công cụ ăn xin, những người ăn xin đều rất thích muội ấy, vì Hỷ Lạc trông rất đáng yêu, ai dắt Hỷ Lạc đi xin tiền thì chắc chắn sẽ xin được nhiều hơn người khác, cho nên Hỷ Lạc từ nhỏ đã là vật may mắn của hội Cái bang, chỉ có Cái bang trưởng lão mới được dắt Hỷ Lạc đi xin ăn.

Tốt quá, không có cha mẹ, như vậy có nghĩa là khi lấy nhau sẽ không phải bỏ ra một khoản tiền bạc để tỏ rõ lòng hiếu thảo đối với cha mẹ vợ, Hỷ Lạc cũng sẽ không bị bắt ép gả về làm thiếp cho anh chàng công tử nào.

Hồi ở trong chùa tôi đã hỏi Hỷ Lạc, khi nào chúng mình lấy nhau?

Hỷ Lạc nói, đợi khi nào sư phụ cho phép, chúng ta ra khỏi chùa hẵng nói.

Tôi nói: Đừng sợ, sư phụ chiều mình lắm, cứ tổ chức đám cưới ngay trong chùa là được, sư phụ có thể chủ trì hôn sự, phương trượng có thể làm chứng.

Song câu này không may bị sư phụ nghe thấy, sự trừng phạt hẳn nhiên là nghiêm khắc hơn bao giờ hết.

Thực ra từ sau khi có Hỷ Lạc, hình bóng của sư huynh Thích Không dường như mờ dần trong ký ức tôi, cuộc sống mười năm về sau vì có Hỷ Lạc mà trôi qua rất nhanh bất kể giữa tôi và Hỷ Lạc là thứ tình cảm gì, bởi dù là tình cảm gì thì chung quy lại cũng đều là tình thân, tôi cảm thấy, lấy Hỷ Lạc là việc sớm muộn mà thôi. Mà việc sớm muộn xảy ra thì xảy ra sớm vẫn hơn là xảy ra muộn, bởi nếu đã là việc sớm muộn xảy ra, thì kết quả sự việc đem lại cũng sớm muộn xảy ra, đều như nhau cả thôi, vậy tại sao không xảy ra sớm đi một chút.

Tôi hỏi: Hỷ Lạc! Hôm nay đã đi bốn năm chục dặm rồi, con Lép thế mà còn chưa ngủ, chúng mình bao giờ thì lấy nhau?

Hỷ Lạc một lúc lâu không có phản ứng gì. Còn con Lép thì lại hí vang lên một tiếng.

Hỷ Lạc nói: Huynh lấy nó đi, nó đồng ý rồi đấy.

Tôi nói: Huynh không đùa với muội đâu, bao giờ thì mình lấy nhau?

Hỷ Lạc lại một lúc lâu không có phản ứng gì.

Tôi nghĩ, đây quả thật là một vấn đề rất khó, từ xưa tới giờ trước mặt tôi Hỷ Lạc chưa bao giờ thể hiện vẻ làm cao thường thấy ở một người con gái, không phải muội ấy không có, chẳng qua là chưa có cơ hội, lần này cuối cùng thì cơ hội cũng đến, chắc chắn muội ấy phải làm cao một lúc, để thể hiện vẻ hấp dẫn đầy nữ tính đó.

Hỷ Lạc nói: Giờ chưa được.

Tôi nói: Vì sao vậy? Muội sợ nếu lúc này nhận lời huynh, khi đến Trường An gặp phải người vừa ý hơn chứ gì?

Hỷ Lạc nói: Không phải, huynh còn chưa tặng muội món quà gì, người ta đâu thể tùy tiện lấy huynh được.

Tôi nói: Cái đó có khó gì, huynh tặng con Lép luôn cho muội đó.

Hỷ Lạc nói: Không được, con Lép vốn dĩ là của muội.

Tôi nói: Vớ vẩn, của lão quản trạm chứ.

Hỷ Lạc nói: Vậy muội không trả nữa đấy thì sao nào, muội và con Lép ở bên nhau lâu nên nảy sinh tình cảm đấy, thì sao nào?

Tôi bất chợt cảm thấy rất thất vọng, xét theo góc độ này, lẽ nào quá trình của tôi và con Lép lại giống nhau sao? Tôi thấp giọng nói: Thì ra là vậy.

Hỷ Lạc nói: Không vui à?

Tôi nói: Đúng thế!

Hỷ Lạc nói: Muội nghĩ thế này, đợi khi chúng ta cùng có một mục tiêu rõ ràng, sau đó cùng đạt được mục tiêu rồi hẵng kết hôn, chứ như bây giờ, ngay cả việc đến Trường An làm gì còn không biết, chưa gì đã lấy nhau rồi. Mà thực ra chúng mình có khác gì đã lấy nhau đâu, ngày nào cũng ở bên nhau, chẳng qua là thiếu một nghi thức mà thôi. Song huynh phải để tóc đi, bằng không người khác dễ tưởng huynh là sư Thiếu Lâm, đi để bảo vệ muội, họ sẽ tranh giành muội với huynh đấy.

Tôi nói: Đúng!

Đêm hôm ấy, chúng tôi lại tới một nơi đồng không mông quạnh, con Lép lại không đi được nữa. Mà chỉ khi nào con Lép không đi được nữa, khi ấy chúng tôi mới được nghỉ ngơi. Tôi thấy chúng tôi vẫn phải tìm đến một gốc cây mới được, bởi nếu nghỉ lại bên đường thì cứ có cảm giác thiếu vắng chỗ dựa, trống huơ trống hoác, trong khi thứ có thể dựa sẫm được thì chỉ có cái cây. Cái cây lần này cách chúng tôi tương đối xa, phải chừng trăm bước. Chúng tôi không thể bỏ con Lép tại chỗ được, bởi khoảng cách đó xa quá, con Lép có thể sẽ bị người ta dắt đi vì tưởng là ngựa hoang, vậy là chỉ còn cách tôi phải cõng nó đi về chỗ cái cây.

Hỷ Lạc nói: Kỳ lạ thật, huynh cứ phải tìm thấy cây mới ngủ được chắc.

Tôi hỏi: Muội không thấy, nếu không có cây, trong lòng cứ có cảm giác thiếu vắng thứ gì đó sao?

Hỷ Lạc đáp: Không hề.

Tôi nói: Huynh cũng chẳng rõ. Huynh cứ phải tựa vào cái gì đó thì mới ngủ yên được.

Hỷ Lạc nói: Huynh như vậy rất nguy hiểm.

Tôi nói: Huynh chẳng ngại nguy hiểm nào hết, lúc ngủ chỉ cần có thứ gì đó khẽ dịch chuyển là huynh có thể tỉnh ngay, sợ gì chứ, huynh không đánh được ai, song chúng ta còn có Linh, sắc nhọn thế cơ mà.

Hỷ Lạc nói: Linh đem đi cầm rồi còn gì.

Tôi nói: Ờ nhỉ, nhưng vậy cũng chẳng sợ, tóm lại chẳng có ai giết nổi huynh, sư phụ nói vậy.

Hỷ Lạc nói: Muội biết huynh rất lợi hại, có điều, huynh cứ nằm ngủ ở gốc cây, huynh sẽ bị sét đánh đấy.

Tôi nói: Hỷ Lạc ơi, muội thật thông minh, những lúc trời mưa chúng ta không ngủ dưới gốc cây nữa.

Hỷ Lạc nói: Huynh thật kém cỏi, lẽ nào cả đời cứ phải ngủ dưới gốc cây sao?

Tôi nói: Ơ, ta có thể tìm một chỗ thật đẹp, có núi có sông mà dựng một mái nhà, cơm ăn áo mặc đầy đủ.

Hỷ Lạc nói: Đến lúc ấy muội nhất định sẽ lấy huynh.

Tôi nói: Thực ra cũng chẳng có gì, trong tay chúng ta còn đầy bạc, sau khi trời sáng ta đi quanh đây xem xem, thấy chỗ nào được thì xây lấy một căn nhà.

Hỷ Lạc nói: Huynh thật chẳng có chí tiến thủ gì cả.

Tôi nói: Tiến thủ cái gì? Cùng lắm chẳng cần thuê công nhân, huynh từ bé đã luyện công phu dùng tay chặt đổ cây, khỏi phải cưa xẻ cả ngày làm gì, thảo nào sư phụ bảo luyện môn công phu này rất có tác dụng.

Hỷ Lạc nói: Muội đâu nói đến việc đó, huynh nghĩ xem, trên vai huynh khoác Linh, thanh kiếm cả thiên hạ đều thèm muốn, sư phụ đã dạy cho huynh mọi thứ, chẳng lẽ chỉ mong huynh chặt cây làm nhà thôi sao?

Tôi nói: Huynh không biết, Linh chẳng phải đem cầm rồi đó thôi?

Hỷ Lạc nói: Huynh là đồ ngốc, huynh tưởng thật sao? Chẳng qua muội thấy chúng ta mang theo nó quá nguy hiểm, tạm thời cất ở một nơi khó có ai có thể nghĩ đến thôi. Sau một tháng nữa còn phải đến lấy đấy.

Tôi nói: Hả, lẽ nào lại phải cưỡi con Lép kia quay lại?

Hỷ Lạc nói: Đương nhiên, không những vậy, chúng ta còn phải chuẩn bị gần một trăm lạng bạc để chuộc nữa đấy.

Tôi nói: Sao muội không nói sớm, nói sớm thì huynh đã chẳng đem cầm cố nữa, chúng ta mang nó theo người, thấy đạo tặc thì chém đạo tặc, cần chặt củi thì đem chặt củi, tiện quá ấy chứ.

Hỷ Lạc nói: Quả thật quá nguy hiểm. Huynh cứ nghe muội đi. Đừng có nghĩ sáng sớm ngày mai đã đi xây nhà, nhé!

Tôi nói: Được rồi, nhưng xây một căn nhà nho nhỏ trước đã nhé!

Hỷ Lạc nói: Ngoan nào, nghe lời muội. Mấy hôm nữa hẵng xây, ở đây cách chùa Thiếu Lâm quá gần, không hay, sư phụ mà biết chắc sẽ tức điên lên mất, mình có muốn làm nhà thì làm ở quãng xa một chút, được không nào, cứ ngủ đi đã nhé.

Chốc lát, tôi đã ngủ khì khì, nghĩ bụng, giang hồ thật quá đỗi bình lặng. Đi xa một chút rồi xây nhà, ắt sẽ trường an vô sự.

Đã đến ngày thứ ba. Tỉnh dậy. Lần này vẫn là Hỷ Lạc đánh thức tôi, tôi mở mắt, lờ mờ trông thấy trước mặt có rất nhiều bóng người chuyển động, liền mở miệng hỏi: Hỷ Lạc, đến Trường An rồi à?

Hỷ Lạc nói: Chưa, họ bảo họ đợi huynh rất lâu rồi.

Tôi mở tròn mắt, thấy phía trước có sáu bảy người ăn vận chỉn chu, người đứng đầu trông mặt mũi thanh tú hơn cả, tôi hỏi Hỷ Lạc: Hỷ Lạc, sơn tặc ăn mặc như thế này à?

Hỷ Lạc nói: Không phải, mấy người này bảo là từ Trục thành lại, muốn gặp huynh.

Tôi hỏi: Họ là ai vậy?

Kẻ đứng đầu nói: À, tôi là Vạn Vĩnh ở Vĩnh Triều sơn trang Trục thành, gia phụ là Vạn Bảo Long nức tiếng giang hồ, để lại kiếm thức Vạn Long quy nhất nổi tiếng, lần này tới đây, một là muốn tận mắt chiêm ngưỡng phong thái của thanh kiếm Linh, sau là muốn cùng Thích huynh đây tỉ thí võ nghệ một chút.

Tôi nói: Được thôi, có điều các vị không trông thấy Linh được đâu, bởi thanh kiếm đó vẫn ở trong Thiếu Lâm, đó là bảo vật của Thiếu Lâm, sao có thể để một kẻ mới ngần này tuổi như tôi tùy tiện mang ra ngoài được.

Vạn Vĩnh nói: Xem chừng chắc vậy, tôi cũng nghĩ như thế, lời đồn thổi trong giang hồ thật không thể tin được, vậy trận tỉ thí võ công thì được chứ ạ?

Tôi nói: Không vấn đề gì.

Vạn Vĩnh nói: Kiếm thức do gia phụ đặt ra bắt buộc phải dùng kiếm mới triển khai được, có điều trong tay Thích huynh lại không có bất kỳ loại vũ khí nào, vậy là không công bằng, phải làm thế nào đây?

Tôi nói: Không sao, tôi còn chưa biết sử dụng binh khí, dùng tay không vậy.

Vạn Vĩnh nói: Tôi quả thực rất muốn thắng huynh, cho nên xin chớ trách tôi không công bằng. Bắt đầu thôi nào!

Tôi nói: Gượm đã! Mấy người đi theo Vạn huynh hãy cho lui lại phía sau đi, tôi sợ gây thương tích cho bọn họ.

Vạn Vĩnh nói: Không được, chiêu thức Vạn long quy nhất chỉ có thể thành công khi có nhiều người cùng giả làm rồng, một mình tôi thì không thể sử dụng tuyệt chiêu này được.

Tôi nói: Hả? Chưa gì đã dùng tuyệt chiêu rồi à? Được thôi, Hỷ Lạc, dắt con Lép ra xa một chút đi.

Hỷ Lạc nói: Huynh cẩn thận đó.

Tôi nói: Huynh làm sao có thể chết ở nơi cách Thiếu Lâm còn chưa đến trăm dặm này được.

Vạn Vĩnh nói: Làm lỡ hành trình của huynh đài, thực mong huynh đài lượng thứ. Song việc thắng huynh đài thực sự rất quan trọng, xin huynh đừng trách tôi bất chấp thủ đoạn.

Tôi nói: Dù sao huynh đài cũng là người có khí phách, bằng không thì đã đánh lén tôi nhân lúc tôi ngủ mơ rồi, thôi bắt đầu đi!

Nói đoạn. Chỉ thấy sau người vây quanh Vạn Vĩnh lập tức bày thế trận, tức tối chạy quanh anh ta, sau rốt trở thành một vòng tròn khiến tôi nhìn mà hoa cả mắt, nghĩ bụng, thật ra điểm khó nhất của chiêu thức Vạn long quy nhất chính là ở mấy chỗ này, cần phải chạy thật nhanh, phải đều tăm tắp, nhìn họ chạy lòng vòng như vậy người trông thế nào chẳng chóng mặt.

Tôi chăm chú quan sát, lòng đầy ngờ vực, bổng nhiên, trong tay sáu người cùng lúc phóng ra sáu mũi tiêu về phía tôi, tôi nghĩ, quả thật nham hiểm, nhằm đúng lúc người khác đang đứng ngây ra nhìn liền ra đòn hiểm độc. Sáu mũi tiêu đều tăm tắp, đoán dựa theo vị trí của chúng thì chắc là nhằm vào phần đầu, cổ, tim gan, đầu gối của đối phương, thật sự là quá ác độc, nhưng phải công nhận là rất chuẩn, khốn nạn nhất là mũi tiêu cuối cùng, dám phóng thẳng vào chỗ kín của tôi hòng khiến tôi rơi vào đường tuyệt tự. Tôi liếc mắt nhìn ngay về phía sau, phát hiện ra sau lưng chỉ có một cái cây, không còn gì khác, may mà con Lép đã được dắt đi, bằng không cũng chẳng biết phải làm thế nào. Thế rồi, tôi nhẹ nhàng nhảy sang bên cạnh một bước, sáu mũi tiêu cũng nhẹ nhàng lướt qua người tôi. Tôi cười thầm, nghĩ bụng chiêu này gọi là Vạn long quy nhất sao.

Bất ngờ, một thanh đoản kiếm được phi ra từ trong sáu kẻ đang chuyển động. Công lực của Vạn Vĩnh thật không tầm thường, có thể lén phi thanh kiếm qua kẽ hở từ sáu người đang chuyển động mà không hề cắm nhầm vào đít quần mình, việc này thật chẳng dễ dàng gì. Hồi luyện chiêu này, dễ chừng phải chết đền hàng đống người.

Tôi nghĩ cùng lắm là lại tránh. Nhưng tôi đã mắc phải một sơ suất, đó là lúc này tôi đang lăn mình giữa không trung, chân còn chưa chạm đất, thì chẳng có cách nào tiếp tục tiến hành động tác khác, trong khi tốc độ của thanh kiếm kia thì lại hết sức nhanh gọn, thậm chí lao đến mỗi lúc một nhanh, theo đúng chiều tôi né mình.

Thôi rồi, tôi nghĩ, chỉ có thể đưa tay ra đỡ thôi.

Nhằm lúc thanh kiếm đến sát bên mình, hai tay tôi chộp lấy chuôi kiếm, mũi kiếm chỉ cách tôi chưa đến một ngón tay, tôi phải chặn thanh kiếm lại trong khoảng cách đó. Theo tôi thấy chắc chẳng có vấn đề gì, nhưng hoàn toàn không ngờ được rằng sức mạnh của thanh kiếm đó lớn hơn rất nhiều so với những gì tôi tưởng tượng, mà bấy giờ quả thật đã không còn chỗ nào có thể tránh được nữa.

Cuối cùng thanh kiếm đâm vào người tôi, sâu quãng một ngón tay.

Chiêu thức này đã kết thúc như vậy, mọi người đều không mảy may động tĩnh. Hỷ Lạc lao như bay tới, cuống quýt gào lên: Huynh, sao huynh lại tự kết liễu như thế?

Tôi rút kiếm ra, nói: Mẹ kiếp, suýt nữa thì đâm ngập.

Hỷ Lạc nói: Sao vậy?

Tôi đưa thanh kiếm đã đâm tôi một nhát ra phía trước, nói: Đến lượt tôi đây.

Vạn Vĩnh cười nói: Thôi khỏi, huynh đài thua rồi, trên kiếm có độc.

Hỷ Lạc vội hỏi: Độc gì vậy?

Vạn Vĩnh nói: Tây vực hồng hoa, nhưng huynh đài chớ lo lắng, loại độc tính này phát tác rất chậm, hai ngày sau mới phát tác hoàn toàn, huynh cùng tôi tới Trục thành đi, tôi chẳng có ác ý gì đâu, chỉ muốn chúng ta kết nghĩa huynh đệ thôi, vả lại thuốc giải chỉ ở trong Vĩnh Triều sơn trang mới có. Tôi bảo đảm huynh sẽ không xảy ra chuyện gì đâu.

Tôi nói: Phát tác sau bao lâu?

Vạn Vĩnh nói: Phải hai ngày. Song một khi phát tác sẽ không có thuốc giải.

Hỷ Lạc nói: Vậy hãy tới sơn trang của huynh đi, mau lên!

Vạn Vĩnh nói: Hai vị cưỡi ngựa theo tôi.

Hỷ Lạc nói: Đợi chúng tôi với nhé, ngựa của chúng tôi đi chậm lắm.

Vạn Vĩnh nói: Không sao. Tôi sẽ đưa các vị ngựa của tôi, tôi dùng ngựa của huynh đệ tôi, ngựa của hai vị tôi bảo một người anh em cưỡi về là được.

Điều này có nghĩa là chúng tôi đã phí công đi rất nhiều quãng đường.

Từ đây tới Trục thành quả nhiên không xa, thoáng một cái chúng tôi đã tới chân cổng thành. Vĩnh Triều sơn trang nằm ở cực Tây của tòa thành, phía sau sát núi, là sơn trang gần như lớn nhất của bản triều, có thời còn chuyên phục vụ chỗ ở cho các vị hoàng đế đại thần đến dâng hương. Tôi chưa kịp ngắm cảnh của Trục thành thì đã tới Vĩnh Triều sơn trang, cổng lớn sơn trang to gấp đôi cổng thành, bốn chữ Vĩnh Triều Sơn Trang đang treo là do đích tay đức vua viết tặng. Bởi bốn chữ này thực ra rất xấu, nếu không phải vua viết thì sẽ chẳng có ai chịu treo cái thứ đó lên trước cửa cả.

Dọc đường tôi đã bắt đầu hôn mê, nhưng tôi vẫn nhủ thầm, sẽ chẳng sao đâu, còn có thuốc giải, với lại chắc chắn tôi không thể chết được, sự việc hoàn toàn nằm ngoài ý muốn, tuy kể ra có hơi ấm ức, vì dù sao đây cũng là lần đầu tiên tôi thực sự tỉ thí với người khác, thế mà lại bị hạ độc, lại còn bị người ta dắt về nhà cứu chữa nũa, thật mất hết thể diện.

Phía trong Vĩnh Triều sơn trang rất rộng lớn, tôi không nhớ nổi đã bị cáng đi qua bao nhiêu cửa, cảnh vật xung quanh dường như cứ biến đổi luôn, lúc thì cảnh hoa sen, khi thì hình chạm khắc, tôi đã không thể trông rõ, cũng không thể nghe rõ, chỉ có tiếng khóc của Hỷ Lạc cứ thút thít bên tai. Tôi nghĩ, ngộ nhỡ lần này không có thuốc giải, thì điều hoàn toàn bất ngờ là: Hỷ Lạc sẽ chôn tôi, đúng là không thể hình dung, mình thì vẫn là mình, nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược.

Cuối cùng tôi được dừng lại trong căn phòng đầy ngập sách, Hỷ Lạc nhớ con Lép, bảo rằng phải ba ngày nữa mới gặp được nó, Vạn Vĩnh nói, cô nương cứ yên tâm, con ngựa chắc chắn sẽ không sao cả, chỉ có thuốc giải độc là quan trọng thôi. Nói đoạn, liền lấy một chiếc bình trên bàn lên, lắc lắc rồi bảo tôi uống.

Tôi nói: Vạn đại ca, thuốc giải mà sao huynh để lung tung thế?

Một tay thuộc hạ của Vạn Vĩnh nói: Hỏi ít thôi.

Vạn Vĩnh nghiêm mặt, quát: “Ai cho phép ngươi chõ mồm vào? Đừng có láo, về sau vị này là chủ nhân của ngươi đấy.”

Đoạn quay sang nói với tôi: Ừm, bọn tiểu nhân không biết gì, huynh mau uống thuốc giải đi?!

Tôi nói: Tôi uống rồi.

Hỷ Lạc nói: Liều lượng uống thế nào?

Vạn Vĩnh nói: Một ngụm.

Tôi nói: Chết thật, tôi hơi khát, nên uống hết rồi.

Vạn Vĩnh nói: Không sao, mặc dù trên giang hồ bình thuốc này phải hơn tám nghìn lạng bạc, nhưng sơn trang của tôi có đầy tiền, huống hồ vì muốn kết giao với hai vị, cho nên hằng ngày cứ coi bình thuốc này là rượu uống cũng được.

Hỷ Lạc nói: Sao lại đắt thế nhỉ?

Vạn Vĩnh nói: Loại thuốc này… chính là Bách độc tàn nổi tiếng trên giang hồ.

Tôi và Hỷ Lạc đều tỏ ra không hay biết.

Vạn Vĩnh nói: Loại thuốc này có thể tiêu trừ bá độc, hành tẩu trên giang hồ có một bình như vậy, thật là…

Hỷ Lạc nói: Sơn trang của huynh đài đây được xây bằng tiền bán thuốc phải không ạ?

Vạn Vĩnh nói: Không phải, Vĩnh Triều sơn trang nổi tiếng trên giang hồ, lẽ nào hai vị chưa nghe nói đến?

Tôi và Hỷ Lạc đều tỏ ra không hay biết.

Vạn Vĩnh nói: Vậy chứng tỏ hai vị không phải là nhân sĩ giang hồ thật rồi. Thuốc này rất đắt, giá gốc là tám ngàn, thường bán năm vạn lạng một bình, gia phụ là vua độc dược lừng tiếng giang hồ, chuyên chế các loại độc dược, độc hơn những gì hai vị có thể tưởng tượng nhiều. Nhưng gia phụ chẳng qua chỉ là thích chế độc dược mà thôi, chứ không hề thích hạ độc, độc dược ông cụ chế ra xưa nay không bán, song người trong giang hồ đều lăm le các món của ông, đều nghĩ đủ mọi cách để thó giật, cũng may gia phụ võ nghệ cao cường, ngoài thuốc chuột ra thì không để bất cứ thứ nào lọt vào dân gian. Sau đó gia phụ được bản triều chiêu an, rồi thì khi bản triều đánh trận, phàm nơi nào công mãi mà không hạ được, liền dùng chất độc diệt thành là hạ được ngay, ngót nửa giang sơn hiện nay được thu về như vậy đấy, thế mà ông lại phải ấm ức mà chết.

Vạn Vĩnh nói đến đây, sắc mặt sa sầm, nhìn tôi và Hỷ Lạc.

Hỷ Lạc nhìn tôi, một lúc lâu mới nói: Huynh, huynh nghe thấy chưa, vừa nãy huynh đã uống chẵn năm vạn lạng đấy.

Chuyện phiếm thêm đôi câu, cũng có phần lời không chuyển tải được ý. Vạn Vĩnh đích thân đi bố trí chỗ ăn ngủ tiếp đón tôi và Hỷ Lạc, còn tôi và Hỷ Lạc thì đi dạo trong trang viên này. Đây thực là một trang viên rất rộng lớn, phải gấp mấy lần so với chùa của chúng tôi, song cả ngày chẳng thấy một bóng người, có thể vì nó thật quá rộng. Từ thư phòng bước ra, dường như phải mất một lúc lâu mới tới được một cụm kiến trúc khác, mà là những nơi đó đều có người chuyên đứng canh giữ, thân phận cao quý của tôi và Hỷ Lạc có lẽ chưa được thông báo triệt để, mọi người đều nhìn chúng tôi với con mắt cảnh giác.

Tôi nói: Hỷ Lạc, muội có thích căn nhà lớn thế này không?

Hỷ Lạc nói: Muội chẳng thích.

Tôi nói: Muội là con gái, sao lại không ham hố vinh hoa phú quý nhỉ, ha ha.

Hỷ Lạc nói: Huynh xem, mấy cái nhà này rồi sẽ sang tên đổi chủ liền xoành xoạch, người ở đây bất quá là tá túc, ở chóng hay chầy mà thôi, chẳng ai chiếm hữu được cả.

Tôi nói: Nhưng muội xem người ta, vung tay thoải mái, còn mình thì phải nghĩ đủ cách để chuộc thanh kiếm lại.

Hỷ Lạc nói: Huynh không hiểu đâu.

Lúc này sắc trời đã tối, trong một căn phòng nào đó của Vĩnh Triều sơn trang đang có múa hát rất linh đình. Nghe tiếng ngân vọng lại, Hỷ Lạc réo lên đòi đi xem kich. Tôi thì chỉ cảm thấy, chẳng có trò gì đáng xem cả, tự mình xem trò mình diễn, thế là thành kịch rồi.

Chúng tôi tiếp tục đi men theo hành lang dài, sự xa hoa cùng lắm là như thế này mà thôi. Hai bên hành lang là một đầm hoa sen, đúng là nhà giàu có khác, chẳng hiểu sao tôi cứ cảm giác loài hoa sen này ngày nào cũng nở, khiến người ta say đắm. Lại còn cả tiếng hát du dương nữa. Cứ đi về phía trước, liền tới hậu hoa viên. Bấy giờ thâm u. Dưới ánh trăng, đá dăm lởm chởm, hoa cỏ ở đây tôi cũng hoàn toàn chẳng biết tên gọi là gì.

Hỷ Lạc rất sợ các trang viên, muội ấy cảm thấy bất cứ trang viên nào cũng từng xảy ra những chuyện rùng rợn.

Bất kỳ trang viên nào cũng giống nhau, điểm khác biệt có lẽ đều ở nội thật, các căn phòng nơi đây đều đóng kín cửa. Chúng tôi men theo đường cũ trở về, phát hiện ra Vạn Vĩnh đã ngồi trong thư phòng đợi chúng tôi.

Tôi nói: Ngại quá, tôi thấy khoan khoái hẳn ra, nên mới tùy ý đi dạo.

Vạn Vĩnh nói: Kỳ thực tôi biết tin từ rất lâu rồi, mà cũng ngưỡng mộ huynh đài từ rất lâu rồi. Ai cũng biết huynh đài sở hữu một khả năng phi thường, mọi người đều muốn giết huynh đài, bởi ai giết được huynh đài thì người đó đương nhiên sẽ càng phi thường hơn. Tôi nghĩ, chúng ta đều là những người học võ, việc chém giết rất chi vô vị, chỉ cần đánh bại đối phương là được rồi, cho nên vừa biết tin huynh đài rời khỏi Thiếu Lâm, tôi liền đem theo người đi tìm ngay, không ngờ hai vị lại đi chậm đến thế, ngót hai ngày mà mới đi được có mấy mươi dặm.

Hỷ Lạc nói: Tôi chưa hề nghe đến chuyện này, nhưng dọc đường chỉ mỗi mình huynh có ý định đánh chúng tôi thôi, ngoài ra có gặp ai nữa đâu. Vả lại, còn có ai muốn sát hại chúng tôi nữa đây?

Vạn Vĩnh nói: Ơ, cô nương ơi, không phải là sát hại hai vị, mà là sát hại vị huynh đài này, cô nương chẳng qua được đi kèm thôi. Nhưng tóm lại thì chẳng ai là cao thủ cả, cho nên đều muốn gây tiếng vang.

Hỷ Lạc nói: Hừm, tôi nói cho huynh biết, tôi mới lợi hại nhất, vị kia còn phải nghe lời tôi. Những người muốn giết chúng tôi đâu?

Vạn Vĩnh nói: À, sau khi họ hay tin, đều đã lũ lượt tăng tốc truy đuổi, bố trí mai phục khắp nơi, ai dè hai vị lại lề mề đến thế, họ đang đón đầu hai vị cả đấy.

Hỷ Lạc nói: Vậy sao huynh lại không đón lõng chúng tôi ở phía trước?

Vạn Vĩnh nói: À, thì tôi nắm thông tin chậm quá, vì tôi ở Trường An suốt. Vừa trở về, nắm được thông tin tôi liền lập tức đuổi theo ngay.

Tôi hỏi: Vậy… việc này… lẽ nào tôi vừa ra khỏi chùa là để bị truy sát?

Vạn Vĩnh nói: Không nghiêm trọng đến thế đâu, ai mà sát hại được huynh chứ? Tôi xin mạo muội hỏi, quan hệ của huynh đài và Hỷ cô nương đây là thế nào… để tôi tiện bố trí phòng ngủ.

Hỷ Lạc nói: Huynh ấy là chồng tôi.

Vạn Vĩnh cả kinh thất sắc, nói: Nhưng huynh ấy là sư.

Tôi nói: À, là trường hợp chiếu cố ngoại lệ ấy mà.

Vạn Vĩnh nói: Ồ. Vậy hai vị nghỉ chung một phòng là được. Sáng mai trời sáng, tôi sẽ lại tới, đưa hai vị đi thăm thú trang viên, rồi ở lại thêm hai ngày.

Tôi nói: Đa tạ Vạn huynh! Song chúng tôi cần tới Trường An gấp.

Vạn Vĩnh nói: Tới đó làm gì vây?

Tôi và Hỷ Lạc đồng thanh nói: Cũng chẳng biết.

Đêm, trước khi đi ngủ, tôi lại hỏi Hỷ Lạc: Muội có thích căn phòng lớn và cái giường lớn này không?

Hỷ Lạc nói: Muội không thích, bởi vì chúng không phải của muội.

Tôi nói: Không thể nói thế được, mọi căn phòng và mọi chiếc giường đều sống lâu hơn muội, cho nên chỉ có chuyện cả đời muội thuộc về chúng, chứ cả đời chúng chẳng thể nào thuộc về muội, có thể sau khi muội chết còn có người khác.

Hỷ Lạc nói: Mặc kệ. Cái gì của muội là của muội, có chết muội cũng phải mang theo.

Tôi nói: Muội mang theo làm sao được.

Hỷ Lạc nói: Huynh đừng có tranh cãi với muội, muội mang cả huynh theo luôn. Muội phải mang huynh theo, mang con Lép theo.

Sáng sớm thức giấc, không khí rất tuyệt, bữa sáng thật thịnh soạn. Vạn Vĩnh đã đợi từ sớm, khiến chúng tôi cảm thấy áy náy. Huynh ta có lẽ là người dậy sớm nhất trong số những người giàu có toàn triều. Vạn Vĩnh nói: Biết là nhị vị kiên quyết chia tay, tôi cũng không ngăn cản nữa, có lần kỳ ngộ này, chúng ta đều là huynh đệ, ngày sau chắc chắn còn gặp lại nhau.

Tôi và Vạn Vĩnh hàn huyên đôi câu, Hỷ Lạc dùng một chút đồ ăn, sau đó chúng tôi từ biệt nơi không chân thực này, đi tới một nơi không chân thực hơn nữa, đó là Trường An. Trước khi đi, Hỷ Lạc hỏi: Vạn đại ca, con ngựa còi của chúng tôi có được ăn no không?

Vạn Vĩnh nói: À, để tôi bảo thủ hạ đi thăm nom xem sao.

Mấy phút sau, một tên thị vệ chạy tới, thầm thì một hồi, Vạn Vĩnh cả kinh thất sắc, nói: Sao lại thế được?

Hỷ Lạc lập tức òa khóc, nói: Tôi biết huynh có thể giải cứu được mọi loại độc, có phải huynh thấy thuốc quá đắt, không thể đem chữa cho một con ngựa được đúng không, ngọn cỏ tinh mơ có đọng sương móc, có ngọn có độc, không thể cho ngựa…

Vạn Vĩnh cười nói: Cô nương hiểu nhầm rồi, quý ngựa vẫn đang trên đường tới đây, còn mấy dặm nữa mới tới sơn trang. Ngựa của hai vị, động tác lề mề, lại hơi đần độn, e sẽ làm nhọc hai vị, chi bằng thế này, trong trang viên của tôi có một con đem từ Tây Vực…

Hỷ Lạc ngắt lời nói: Đa tạ Vạn huynh, không cần đâu.

Tôi hỏi: Cái loại ngựa chưa bao giờ biết chạy, mà muội thích đến thế cơ à?

Hỷ Lạc nói: Đúng thế.

Tôi hỏi: Vì sao?

Hỷ Lạc đáp: Vì đó là con ngựa đầu tiên muội chọn.

Nói thực lòng, tôi chẳng có chút cảm tình nào với cái con Lép. Sự khó hiểu của phụ nữ nằm ở chỗ, họ có thể nảy sinh một thứ tình cảm khó lý giải với một số sự vật khó hiểu, còn tôi thì cảm thấy buồn chán khi từ đầu tới giờ vẫn chưa thể ra dáng oai phong hào hiệp trên lưng ngựa. Con ngựa kia không khiến tôi cảm thấy có sự tồn tại của tốc độ, nếu có thì chỉ là sự chờ

/8